Nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, đảm bảo thể chế hiệu lực, khả thi
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nêu rõ: “Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011),… Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội”; đồng thời thẳng thắn chỉ rõ “hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn”. Do vậy, việc “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo” được xác định là 01 trong 10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của Nghị quyết.
Để góp phần tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo cụ thể tại các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ, phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật (tính riêng từ đầu năm 2023 đến nay, Chính phủ đã tổ chức 09 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật); đồng thời dành nhiều thời gian để cho ý kiến, thảo luận về nội dung chính sách trong đề nghị xây dựng VBQPPL và nội dung dự án, dự thảo VBQPPL trước khi thông qua đề nghị, dự án, dự thảo VBQPPL. Về phía Bộ Tư pháp, Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Bộ luôn coi công tác tham mưu, xây dựng thể chế, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên nguồn lực thực hiện; thường xuyên phổ biến, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường nhận thức và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hiệu lực, khả thi.
2. Kết quả đạt được và hạn chế trong công tác xây dựng pháp luật
2.1. Kết quả đạt được
Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã cùng với các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm và có hiệu quả Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, tiến độ lập đề nghị, soạn thảo, ban hành VBQPPL; hạn chế việc lùi, rút các dự án luật, pháp lệnh và tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết… Thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật của bộ, ngành, địa phương ngày càng đi vào nền nếp và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận:
Công tác nghiên cứu, lập đề nghị xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội ngày càng bảo đảm tính chủ động, kịp thời;
(ii) Công tác soạn thảo, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền nhìn chung bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục Luật định;
(iii) Công tác thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính đối với dự án, dự thảo VBQPPL tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện thông qua vai trò đầu mối là tổ chức pháp chế;
(iv) Việc tổ chức lấy ý kiến dự án, dự thảo VBQPPL có nhiều chuyển biến tích cực; hoạt động truyền thông về dự thảo chính sách được các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo ngày càng quan tâm, chú trọng thực hiện... Chất lượng VBQPPL ngày càng được nâng cao; nội dung VBQPPL bảo đảm tính hợp hiến, cơ bản bảo đảm tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa số văn bản bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nhiều văn bản có tính đột phá về thể chế cho phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương, hỗ trợ đắc lực cho phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19; tạo lập môi trường pháp lý công khai, minh bạch, tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục chú trọng công tác rà soát VBQPPL. Từ năm 2020 trở lại đây, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát VBQPPL đã triển khai thực hiện rà soát tổng thể và rà soát chuyên sâu đối với VBQPPL thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước do các cơ quan Trung ương ban hành, qua đó kịp thời xử lý những mâu thuẫn, chồng chéo, hạn chế, vướng mắc về thể chế trong các lĩnh vực được dư luận xã hội, doanh nghiệp, người dân quan tâm, trọng tâm là các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong điều kiện tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm khơi thông nguồn lực cho sự phát triển. Đặc biệt, Tổ công tác và các bộ, ngành đã tập trung nguồn lực, tổ chức thực hiện rà soát quy định của pháp luật để ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường điện tử và phát triểnkinh tế - xã hội (triển khai Đề án số 06); rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong chính sách, pháp luật theo 22 lĩnh vực trọng tâm tại Nghị quyết số 101/2023/QH15 của Quốc hội.
2.2. Hạn chế
- Vẫn còn tình trạng bổ sung và đang có chiều hướng tăng lên các dự án vào Chương trình không theo Chương trình tổng thể hoặc đề nghị sát thời điểm tổ chức kỳ họp, phiên họp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; một số dự án chưa được nghiên cứu, tính toán kỹ về phạm vi điều chỉnh, tác động của chính sách trong dự án luật nên chưa được bổ sung vào Chương trình; còn tình trạng các dự án luật sau khi đưa vào chương trình nhưng phải xin lùi, rút hoặc điều chỉnh thời hạn trình.
- Một số dự thảo văn bản chất lượng còn thấp; còn tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, chưa đồng bộ giữa một số quy định trong các VBQPPL dẫn đến cách hiểu khác nhau, khó tổ chức thi hành.
- Quá trình thực hiện quy trình xây dựng pháp luật còn một số hạn chế như:
+ Việc xây dựng một số VBQPPL chưa đảm bảo thời gian để thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định; một số cơ quan chưa chủ động thực hiện lập đề nghị, chậm triển khai các hoạt động soạn thảo, cùng với sức ép về tiến độ trình, ban hành nên đã đề xuất áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn chưa đúng tiêu chí Luật định. Tình trạng thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập không tham gia đầy đủ các cuộc họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập mà ủy quyền cho cấp dưới tham dự diễn ra khá phổ biến;
+ Hoạt động lấy ý kiến còn mang tính hình thức, nội dung lấy ý kiến chưa nêu được những vấn đề trọng tâm của chính sách, nội dung chính của dự thảo văn bản nên chưa thực sự tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tham gia ý kiến; việc giải trình, phản hồi ý kiến góp ý trong một số trường hợp còn chưa đầy đủ; việc thực hiện truyền thông dự thảo chính sách có nơi làm tốt nhưng cũng có nơi chưa được quan tâm đúng mức;
+ Một số cơ quan chủ trì soạn thảo chuẩn bị hồ sơ còn sơ sài; có trường hợp gửi hồ sơ muộn dẫn đến không đảm bảo thời gian để cơ quan thẩm định nghiên cứu hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL, dự án, dự thảo VBQPPL.
- Một số bộ, ngành, địa phương còn chưa quan tâm, chưa chủ động tổ chức thực hiện rà soát VBQPPL trong lĩnh vực, phạm vi do mình quản lý. Đối với báo cáo rà soát, kiểm tra VBQPPL đã thực hiện, nhìn chung việc xử lý các văn bản sau kiểm tra, rà soát còn chậm.
3. Nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hiệu lực, khả thi Bộ Tư pháp đề nghị các bộ, ngành, địa phương tiếp tục quan tâm, thực hiện tốt công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hiệu lực, khả thi, trong đó tập trung vào các nhóm giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật thông qua việc quán triệt, tăng cường nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị tham mưu lập đề nghị, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra; kịp thời báo cáo, xin ý kiến cấp ủy, tổ chức Đảng trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật về ban hành VBQPPL; Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 14/8/2023 của Chính phủ về một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nhằm ngăn ngừa tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.
Hai là, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng, ban hành VBQPPL, cụ thể:
- Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức chủ trì lập đề nghị, soạn thảo, ban hành VBQPPL chỉ đạo các đơn vị, cá nhân thường xuyên rà soát chủ trương, đường lối của Đảng, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và thực tiễn thi hành pháp luật để kịp thời đề xuất, soạn thảo, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL; sử dụng kết quả rà soát là nguồn dữ liệu đầu vào phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; chủ động đề xuất theo thẩm quyền việc xử lý những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, sơ hở, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn và xác định lộ trình cụ thể thực hiện.
- Cơ quan chủ trì soạn thảo cần chuẩn bị đầy đủ về thành phần hồ sơ, bảo đảm chất lượng các tài liệu trong hồ sơ; tuân thủ nghiêm trình tự, thủ tục, tránh tình trạng do sức ép về thời gian nên xin áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn; tổ chức hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập đúng quy định; tăng cường các phương pháp lấy ý kiến thực chất, hiệu quả, giải trình đầy đủ ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân; chú trọng tiếp thu, giải trình toàn diện, đầy đủ, có trách nhiệm đối với nội dung văn bản thẩm định.
- Cơ quan chủ trì thẩm định tiếp tục phát huy hình thức hội đồng thẩm định, hội đồng tư vấn thẩm định; chú trọng thẩm định tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, sự cần thiết, tính hợp pháp, tính hợp lý và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính; tăng cường, huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học; chú trọng theo dõi sát việc tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của cơ quan chủ trì soạn thảo.
Ba là, tăng cường kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng, ban hành VBQPPL, trong đó chú trọng kiểm tra, xử lý các VBQPPL có quy định trái thẩm quyền, nội dung; xác định rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua, ban hành VBQPPL; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật.
Bốn là, tăng cường truyền thông chính sách ngay trong quá trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL; bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức cá nhân trong quá trình soạn thảo VBQPPL; bảo đảm các điều kiện để Mặt trận Tổ quốcViệt Nam, người dân, doanh nghiệp tham gia có chất lượng trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL.
Năm là, để bảo đảm tính hiệu lực, khả thi của thể chế, cần làm tốt công tác tổ chức thi hành pháp luật; thường xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi hoặc đề xuất sửa đổi VBQPPL, bảo đảm pháp luật bám sát với “hơi thở” cuộc sống, phù hợp và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Trước mắt, đề nghị các cơ quan có kế hoạch cụ thể để sớm xử lý các văn bản tại các báo cáo kết quả rà soát theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 của Quốc hội và Đề án 06 của Thủ tướng Chính phủ.
Sáu là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế của các bộ, ngành, địa phương; chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật nhằm xây dựng văn hóa liêm chính trong thực thi công vụ, nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với quan điểm sai trái, không để bị lợi dụng, tác động nhằm cài cắm, làm sai lệch nội dung VBQPPL; đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật.