Ngày 23/10/2023 Văn phòng Chính phủ đã có Báo cáo số 8244/BC-VPCP Đánh giá về tình hình và kết quả triển khai các giải pháp đổi mới trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp tại các bộ, ngành, địa phươngĐể triển khai các giải pháp đổi mới trong thực hiện thủ tục hành chính, việc hoàn thiện thể chế tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh, nhất là thể chế phục vụ cho chuyển đổi số trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công. Theo đó, nhiều cơ chế, chính sách, quy định trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện như: Quốc hội đã ban hành Luật giao dịch điện tử; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, Nghị định số 107/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, Nghị định số 59/2022/NĐ-CP về xác thực, định danh điện tử, Nghị định số 42/2022/NĐ-CP về cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân; Văn phòng Chính phủ ban hành Thông tư số 01/2023/TT-VPCP quy định một số nội dung biện pháp thi hành trong số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 13/2023/TT-BNV hướng dẫn lưu trữ hồ sơ thủ tục hành chính điện tử; Hội đồng nhân dân 41/63 tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách miễn hoặc giảm phí, lệ phí trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến,...
Công tác chỉ đạo, điều hành cũng được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện. 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã kịp thời ban hành Kế hoạch, nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ các nội dung đổi mới việc thực hiện thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Việc quán triệt, tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ, công chức, viên chức đã được nhiều bộ, ngành, địa phương quan tâm tổ chức để triển khai 05 nội dung đổi mới trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công tại bộ, ngành, địa phương. Đến nay, có 51/85 Bộ, cơ quan, địa phương (chiếm 60%) thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Quy chế tổ chức hoạt động của BPMC, quy chế Hệ thống tin giải quyết TTHC để bổ sung quy trình số hóa trong việc tiếp nhận, giải quyết TTHC
Số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính là một giải pháp quan trọng để đổi mới công tác thực hiện số hóa dữ liệu trên cơ sở gắn kết trực tiếp với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính nhằm hình thành cơ sở dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống”. Theo báo cáo của các bộ, địa phương, đến nay, 67/76 bộ, ngành, địa phương đã ban hành Kế hoạch số hóa kết quả giải quyết TTHC đang có hiệu lực (chiếm tỷ lệ 88,2%); 100% cơ quan, đơn vị quan tâm nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống thông tin giải quyết TTHC, trong đó đã có 37/76 cơ quan, đơn vị (chiếm tỷ lệ 48,6%) đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chức năng, tính năng kỹ thuật theo hướng dẫn; 42/76 bộ, cơ quan, địa phương (chiếm 55,3%) đã xây dựng Kho quản lý dữ liệu điện tử trên HTTT giải quyết TTHC; việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC đã được triển khai ở 9.200/11.956 BPMC, chiếm 76,9% (8.364 BPMC địa phương, 836 BPMC thuộc cấp bộ, cơ quan được tổ chức theo ngành dọc). Bên cạnh đó, tính đến tháng 10 năm 2023, Ban Cơ yếu Chính phủ đã đảm bảo cung cấp trên 715.000 chứng thư số cho các bộ, ngành, địa phương trong cả nước,trong đó đối với cơ quan cấp bộ, ngành, địa phương đã cấp 93 (đạt 100%) chứng thư số cho tổ chức và 407 (đạt khoảng 94.7%) chứng thư số cho lãnh đạo;đối với cấp cục, vụ, sở và tương đương đã cấp 5.198/5.318 (đạt khoảng 97.74%) chứng thư số cho tổ chức và 18.085 (đạt khoảng 98.33%) chứng thư số cho lãnh đạo;đối với địa phương, cấp xã đã cấp 10.462/10.614 (đạt khoảng 98,48%) chứng thư số cho tổ chức và 26.583 (đạt khoảng 71.55%) chứng thư số cho lãnh đạo; đã phối hợp, triển khai trên 58.000 thiết bị SIM ký số trên thiết bị di động cho 30 bộ, ngành Trung ương và 63 địa phương để phục vụ cho công tác số hóa. Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính có sự cải thiện rõ rệt, trong đó 9 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ hồ sơ được cấp kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử các bộ, ngành đạt 24,48% (tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2022), các địa phương đạt 38,94% (tăng 25,8% so với cùng kỳ năm 2022); 63/63 địa phương đã thực hiện triển khai chứng thực bản sao điện tử từ bản chính, cấp được hơn 3 triệu bản sao chứng thực điện tử; việc chuyển từ hồ sơ giấy sang hồ sơ điện tử của cấp bộ đạt 81,39% (tăng 29,7% so với cùng kỳ năm 2022), địa phương đạt 70,24% (tăng 31,4% so với cùng kỳ năm 2022), góp phần xây dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành như: dân cư, bảo hiểm xã hội, đăng ký doanh nghiệp, hộ tịch điện tử, giấy phép lái xe,...
- Các dịch vụ công liên thông điện tử được đẩy mạnh dựa trên kết nối, chia sẻ, liên thông dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước như: Dịch vụ công trực tuyến đăng ký, cấp biển số xe (dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng kiểm, hải quan, thuế, công an giúp cắt giảm được thủ tục xác nhận tờ khai nguồn gốc xe đối với xe nhập khẩu, giảm các giấy tờ phải nộp, thông tin phải điền của chủ xe); dịch vụ công toàn trình Đổi giấy phép lái xe (dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giấy khám sức khỏe của các cơ sở khám chữa bệnh thông qua hệ thống thông tin của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, dữ liệu xử lý vi phạm hành chính của Bộ Công an giúp giảm thời gian, thủ tục xác minh, kiểm tra và giấy tờ phải nộp,…); 02 nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi” và “Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng” (giúp cắt giảm hồ sơ, giấy tờ, thời gian thực hiện, chi phí đi lại của nhóm khai sinh từ tổng số 21 ngày làm việc xuống còn 4 ngày làm việc; nhóm khai tử từ tổng số 25 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc),… Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt công tác này như: Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính (Thuế, Hải quan, Kho bạc nhà nước), Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bình Định,…
- Cổng Dịch vụ công quốc gia đã kết nối, tích hợp với 150 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan, đơn vị[1] phục vụ xác thực định danh, đăng nhập một lần và giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, trong đó đã công khai, đồng bộ thông tin 6.413 TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính với các Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh; tích hợp, cung cấp gần 4,5 nghìn dịch vụ công trực tuyến, chiếm hơn 70%; phục vụ xác thực, định danh và đăng nhập một lần của gần 10 triệu tài khoản, với 2,8 tỷ lượt truy cập tìm hiểu thông tin và dịch vụ, trung bình mỗi ngày có 106 nghìn hồ sơ trực tuyến, 50 nghìn giao dịch thanh toán trực tuyến trên Cổng.
- Có 03 Bộ (Nội vụ, Tư pháp, Giao thông vận tải) và 31 địa phương đã hoàn thành việc xây dựng, kết nối, tích hợp Kho dữ liệu điện tử trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh với Kho dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Cổng Dịch vụ công quốc gia để chia sẻ, tái sử dụng dữ liệu số hóa phục vụ giải quyết thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa phương đã chủ động nghiên cứu, triển khai các giải pháp kết nối, chia sẻ tại bộ, ngành, địa phương giúp việc triển khai thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến thuận lợi, hiệu quả hơn như: (1) Tỉnh Bình Định thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính với Hệ thống thông tin của các bệnh viện, trường học, doanh nghiệp cấp nước, vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh giúp người dân Bình Định thực hiện thanh toán trực tuyến viện phí, phí trên Hệ thống thanh toán trực tuyến của Cổng Dịch vụ công quốc gia; (2) Tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng Cơ sở dữ liệu quản lý lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh trên cơ sở số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh giúp việc quản lý và giải quyết có hiệu quả các thủ tục hành chính liên quan đến người nước ngoài, nhất là các dịch vụ công trực tuyến về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài trên địa bàn tỉnh thuận lợi, hiệu quả hơn,…
- Dịch vụ công trực tuyến có sự cải thiện rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, tại các bộ, ngành, có khoảng gần 4,5 nghìn thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết (bao gồm cả các thủ tục hành chính của cơ quan ngành dọc đóng tại địa phương) thì có khoảng 1,9 nghìn TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (chiếm 42%), 1,3 nghìn dịch vụ công trực tuyến một phần (chiếm 28,8%). Tại các địa phương, trung bình mỗi tỉnh có khoảng gần 1,9 nghìn thủ tục hành chính thì có khoảng 853 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (chiếm 46,5%), 604 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến một phần (chiếm 32,9%). Về số lượng hồ sơ trực tuyến, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến của các bộ, ngành khoảng 80,7% (tăng 1,5 lần so với năm 2022), của địa phương khoảng 63,5% (tăng 1,8 lần so với năm 2022) trên tổng số hồ sơ tiếp nhận, giải quyết TTHC. …
- Có 08 bộ và 29 địa phương triển khai việc tiếp nhận, giải quyết không phụ thuộc vào địa giới hành chính đối với các hồ sơ tiếp nhận trực tiếp theo 02 phương thức: (1) Tiếp nhận, xử lý, trả kết quả không phụ thuộc vào địa giới hành chính như: Quy định cho phép cấp Căn cước công dân, xác nhận cư trú (ngành Công an), cấp lại thẻ bảo hiểm y tế (ngành Bảo hiểm xã hội), đổi giấy phép lái xe (ngành Giao thông vận tải) tại tương ứng bất kỳ cơ quan công an xã, phường, cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện, Sở Giao thông vận tải nơi sinh sống, học tập, cư trú,… (2) Tiếp nhận, trả kết quả không phụ thuộc vào địa giới hành chính, trong đó 29 địa phương đã ban hành danh mục các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh cho phép công dân có quyền lựa chọn nộp hồ sơ và nhận kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp huyện, cấp xã,… Số lượng hồ sơ thủ tục hành chính được tiếp nhận, giải quyết không phụ thuộc vào địa giới hành chính là 6,9 triệu hồ sơ, trong đó bộ, ngành là 3,4 triệu hồ sơ, địa phương là 3,5 triệu hồ sơ.
Nguồn: Báo cáo số 8244/BC-VPCP